Tăng tiến đến hành quyết Holocaust

Khởi thủy

Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Đảng Quốc xã của Adolf Hitler lên nắm quyền, hầu như ngay lập tức tiến hành các cuộc bức hại và trục xuất 525.000 người Do Thái đang sinh sống tại Đức. Trong quyển Mein Kampf (năm 1925), Hitler không giấu giếm sự căm ghét đối với người Do Thái, và hé lộ những dấu hiệu về ý định truất bỏ họ khỏi đời sống chính trị, trí thức và văn hóa Đức.

Hố chôn tập thể bên trong trại Bergen-Belsen

Những nhà trí thức Do Thái là những người đầu tiên rời bỏ nước Đức. Nhà triết học Walter Benjamin đến Paris ngày 18 tháng 3 năm 1933. Nhà văn Leon Feuchtwanger đến Thụy Sĩ. Nhà chỉ huy dàn nhạc Bruno Walter vội đào thoát khi biết tin sảnh đường của Dàn nhạc Giao hưởng Berlin sẽ làm mồi cho lửa nếu ông tiếp tục làm việc tại đây. Ngày 30 tháng 1 năm 1933, Albert Einstein đang ở Hoa Kỳ trong một chuyến tham quan; sau đó ông đến Ostende ở Bỉ, nhưng không bao giờ trở lại nước Đức, ông lên tiếng cáo buộc tình hình ở Đức là "một sự bệnh hoạn tinh thần của quần chúng"; Einstein bị trục xuất khỏi Hội Kaiser Wilhelm và Hàn lâm viện Khoa học Phổ, quốc tịch của ông cũng bị tước bỏ.[21] Saul Friedländer thuật lại rằng khi Max Liebermann - có lẽ là họa sĩ tài danh nhất nước Đức, cũng là chủ tịch danh dự Hàn lâm viện Nghệ thuật Phổ - từ nhiệm, không ai trong số các đồng nghiệp tìm đến bày tỏ sự đồng cảm, hai năm sau ông chết trong khi bị phát vãng. Năm 1943, khi cảnh sát đem theo cáng để trục xuất bà vợ góa 85 tuổi của Libermann đang nằm liệt giường, bà đã dùng thuốc ngủ quá liều để tự kết liễu đời mình chứ không chịu để bị đem đi.[22]

Suốt trong thập niên 1930, các quyền pháp lý, kinh tế, và xã hội của người Do Thái dần dà bị hạn chế. Theo Friedländer, đối với Quốc xã, sức mạnh của nước Đức bắt nguồn từ "sự tinh tuyền của dòng máu Đức" và "sự bắt rễ sâu trong mảnh đất Đức thiêng liêng".[23] Năm 1933, một loạt các đạo luật được thông qua nhằm trục xuất người Do Thái khỏi những khu vực quan trọng: luật dịch vụ dân sự, luật thầy thuốc và luật nông trang cấm người Do Thái sở hữu nông trại hay hoạt động nông nghiệp, luật sư Do Thái bị loại khỏi luật sư đoàn. Tại Dresden, các luật sư và thẩm phán người Do Thái bị lôi ra khỏi văn phòng và tòa án, rồi bị hành hung.[24] Người Do Thái bị đuổi khỏi trường học và các viện đại học, cũng như bị loại bỏ khỏi hội nhà báo.[23]

Năm 1935, Hitler giới thiệu bộ luật Nürnberg tước quyền công dân và tất cả quyền dân sự của người Do Thái. Trong bài diễn văn của mình, Hitler nói nếu bộ luật này không giải quyết nổi "vấn nạn Do Thái", thì cần phải làm luật giao cho Đảng Quốc xã đưa ra giải pháp tối hậu (Endlösung).[25] Thuật từ Endlösung trở thành cách nói chuẩn của Quốc xã khi ám chỉ biện pháp tuyệt diệt dân Do Thái.[26]

Vấn đề xác định biện pháp đối với người Do Thái trở nên cấp bách khi Đức Quốc xã chiếm đóng phía tây Ba Lan vào tháng 9 năm 1939; khu vực này là nơi sinh sống của khoảng hai triệu người Do Thái. Cánh tay mặt của Heinrich Himmler, Reinhard Heydrich, đề xuất tập trung tất cả người Do Thái vào các khu biệt cư (ghetto) ở các thành phố lớn, và buộc họ làm việc phục vụ cho công nghiệp chiến tranh Đức. Cần phải đặt các khu biệt cư gần các ga hỏa xa đầu mối, theo lời của Heydrich, để "có thể dễ dàng xử lý sau này".[27] Trong lần thẩm vấn năm 1961, Adolf Eichmann làm chứng rằng "xử lý" nghĩa là "tàn sát".[27]

Bức hại và tàn sát (1938-1942)

Nhiều nhà nghiên cứu xem vụ bạo động bài Do Thái mệnh danh Kristallnacht (Đêm Kính vỡ), ngày 9 tháng 11 năm 1938, là thời điểm khởi phát vụ Holocaust. Trên khắp nước Đức, người Do Thái bị tấn công và tài sản của họ bị cướp phá. Khoảng 100 người Do Thái bị giết, và 30.000 người khác bị đưa vào các trại tập trung, có hơn 7.000 cửa hiệu và 1 668 hội đường của người Do Thái bị tàn phá hoặc bị hủy diệt hoàn toàn. Những cảnh tương tự cũng diễn ra tại Áo, đặc biệt là ở Viên.

Nhiều vụ cướp bóc tàn sát người Do Thái xảy ra ở các khu dân cư trong thời Chiến tranh thế giới thứ hai, một số do Quốc xã kích động, phần còn lại do tự phát.

Trại tập trung và trại lao động (1933 – 1945)

Sau cuộc tuyển cử 1932, khi biết rằng không thể bảo đảm đa số phiếu, giới lãnh đạo Quốc xã quyết định dựa vào những phương tiện khác để tiếp tục nắm giữ quyền lực. Khi sắp đến cuộc bầu cử năm 1933, Quốc xã bắt đầu đẩy mạnh những hoạt động bạo lực để phá hoại phe đối lập. Cùng lúc, với sự hợp tác từ chính quyền các địa phương, Quốc xã thiết lập các trại tập trung trong nước Đức. Một trong những trại đầu tiên là Dachau, mở cửa vào tháng 3 năm 1933. Lúc đầu chúng là những địa điểm giam cầm, tra tấn, và sát hại các tù chính trị như đảng viên cộng sản và dân chủ xã hội. Dần dà, Quốc xã cho cầm giữ tại đây người Do Thái, dân Di-gan, tín hữu Nhân Chứng Giê-hô-va, người đồng tính, nhà báo và những người "đáng ghét" khác.

Ngày 12 tháng 4 năm 1945: Trại Nordhausen, nơi kết thúc mạng sống của 20.000 tù nhân

Những trại giam trong thời kỳ đầu này – thường là ở tầng hầm hoặc nhà phố - dần dần trở thành những trại giam trực thuộc trung ương mọc lên tại khu ngoại vi các đô thị để tránh sự dòm ngó. Năm 1942, riêng trong vùng lãnh thổ bị Quốc xã chiếm đóng tại Ba Lan, có sáu trại hành quyết lớn. Sau năm 1939, lúc khởi phát chiến tranh thế giới lần thứ hai, nhiều trại tập trung được xây dựng để giam cầm những kẻ thù phi chính trị của Quốc xã, trong đó có người Do Thái và tù binh chiến tranh, những người này hoặc bị giết hoặc trở thành lao động khổ sai, luôn luôn chịu đói và bị tra tấn.

Trong thời kỳ chiến tranh, trại tập trung dành cho dân Do Thái và những "người đáng ghét" mọc lên khắp mọi nơi ở Âu châu, lúc này những trại tân lập được xây dựng kế cận các khu trung tâm có nhiều "người đáng ghét", thường tập trung vào những khu vực có đông người Do Thái, giới trí thức Ba Lan, người cộng sản, hoặc người Roma và Sinti (Di-gan). Ngay trên đất Đức cũng có các trại tập trung, nhưng đa phần đều nằm trong lãnh thổ bị Đức chiếm đóng của Ba Lan. Việc vận chuyển tù nhân thường diễn ra trong tình trạng khủng khiếp, tù nhân bị nhồi nhét vào những toa hàng đóng kín, nhiều người chết trên đường đi.

Khi nhập trại, tù nhân bị buộc phải xăm trên mình số tù.[28] Những người còn đủ sức phải làm việc 12–14 giờ mỗi ngày. Luôn luôn có tập hợp điểm danh trước khi bắt đầu và sau khi kết thúc những giờ lao động khổ sai. Những lần tập hợp điểm danh này kéo dài hàng tiếng đồng hồ, ngay cả lúc trời mưa hoặc tuyết rơi, nhiều tù nhân chết vì bị cảm lạnh.[29]

Giữa hai thời điểm nhập trại và chết, người tù chịu đựng nhiều hình thức nhục mạ và tra tấn tinh thần. Họ thường bị đánh đập, roi vọt, trói giật tay treo trên sà ngang, rồi bị bắn chết cách ngẫu hứng.

Các loại nhục hình đan xen lẫn nhau tạo nên một trải nghiệm kinh hoàng cho những người bị giam cầm trong trại. Nhiều người mong đợi cái chết như một sự giải thoát.

Ngược đãi

Nhiều nhà nghiên cứu xem thời điểm khởi đầu cuộc thảm sát là lúc bùng nổ những cuộc bạo động chống người Do Thái "Đêm Thủy tinh vỡ" (Kristallnacht) vào ngày 9 tháng 11 năm 1938. Trên khắp nước Đức, dân Do Thái bị tấn công và bị cướp phá tài sản. Có khoảng 100 người bị giết và 30.000 người khác bị đưa vào các trại tập trung, hơn 7.000 cửa hiệu và 1.574 hội đường của người Do Thái (hầu hết hội đường Do Thái giáo ở Đức) bị đập phá hoặc bị hủy diệt hoàn toàn. Tình trạng tương tự cũng xảy ra ở Wien vào cùng một thời điểm.

Nhiều cuộc tàn sát thực hiện bởi cư dân địa phương xảy ra suốt Chiến tranh thế giới thứ hai, một số do sự khích động của Quốc xã, số khác do tự phát, trong đó có vụ thảm sát xảy ra tại România ngày 30 tháng 6 năm 1941 với 14.000 người Do Thái bị cho là mất mạng do tay cảnh sát và người dân Romania, và vụ thảm sát Jedwabne với con số nạn nhân từ 380 đến 1.600 người Do Thái bị giết bởi người Ba Lan.

Những hồ sơ còn lưu giữ của Văn phòng An ninh Đức (Reichsicherheeitshauptamt) cho thấy có kế hoạch ngược đãi thành viên "hội kín" Tam Điểm. Khó biết được con số chính xác, nhưng các ước tính cho rằng có khoảng từ 80.000 đến 200.000 người Tam Điểm bị thủ tiêu bởi Quốc xã.

Chương trình T-4 Euthanasia

Chương trình T-4 Euthanasia được thành lập nhằm "bảo vệ tinh thuần khiết di truyền" của dân Đức bằng cách giết chết các công dân Đức dị dạng, tật nguyền, khiếm khuyết hoặc mắc bệnh tâm thần. Từ năm 1939 đến 1941, con số nạn nhân của chương trình này vượt quá 200.000 người.

Khu biệt cư (1940 – 1945)

Người Đức đến, toàn là cảnh sát, họ bắt đầu đập cửa từng nhà: "Raus, raus, raus, Juden raus." … Một đứa bé kêu khóc... Những đứa khác khóc theo. Bà mẹ vội tiểu vào tay mình rồi cho đứa bé uống để ngừng khóc... [Khi cảnh sát đi rồi], tôi bảo các bà mẹ bước ra. Một đứa bé đã chết... vì quá sợ hãi, người mẹ đã làm con mình ngạt thở.

—Abraham Malik, thuật lại những điều ông chứng kiến ở khu biệt cư Kovno.[30]

Sau khi chiếm đóng Ba Lan, Quốc xã bắt đầu thiết lập những khu biệt cư (ghetto) dành cho người Do Thái (một số cho người Roma và Sinti) cho đến khi họ bị đưa đến những trại tử thần. Rộng lớn nhất trong số này là khu biệt cư Warszawa có 380.000 cư dân, đứng thứ nhì là khu biệt cư Łódź, cầm giữ 160.000 người; ngoài ra còn có những khu biệt cư được thiết lập ở nhiều thành phố khác nhau. Các khu biệt cư được thiết lập trong năm 1940 và 1941, hầu như ngay lập tức chật cứng tù nhân; mặc dù khu biệt cư Warszawa chứa 30% dân số thành phố Warszawa, nó chỉ chiếm 2,4% diện tích thành phố, tính trung bình mỗi phòng trong khu biệt cư chứa 9,2 người ở. Từ năm 1940 đến 1942, trong những khu biệt cư các loại bệnh tật (nhiều nhất là sốt thương hàn) và đói kém cướp mạng sống hàng trăm ngàn người Do Thái.

Ngày 19 tháng 7 năm 1942, Heinrich Himmler ra lệnh trục xuất người Do Thái khỏi các khu biệt cư và mang họ đến những trại tử thần. Ngày 22 tháng 7 năm 1942, bắt đầu trục xuất các cư dân ở khu biệt cư Warszawa; trong 52 ngày kế tiếp (đến ngày 12 tháng 9 năm 1942) chỉ riêng từ Warszawa có đến khoảng 300.000 người được vận chuyển bằng tàu hỏa đến trại hành quyết Treblinka. Nhiều khu biệt cư khác hoàn toàn vắng bóng người. Cuộc nổi dậy đầu tiên xảy ra trong khu biệt cư vào tháng 9 năm 1942 tại Łachwa, một thị trấn miền đông nam Ba Lan. Trong năm 1943, có một vài vụ đề kháng có vũ trang bùng nổ trong các khu biệt cư lớn hơn như tại các khu biệt cư Warszawa và Bialystok, tất cả đều bị dập tắt bởi quân đội Quốc xã, những người Do Thái còn lại trong trại hoặc bị hành quyết tại chỗ hoặc bị đưa đến các trại hành quyết.[31]

Đội hành quyết (1941 – 1943)

Dân Do Thái trong thành phố Kiev và vùng phụ cận! Thứ Hai, ngày 29 tháng 9, phải tập trung vào lúc 8 giờ sáng, đem theo vật dụng cá nhân, tiền, giấy tờ, tư trang, áo lạnh tại Đường Dorogozhitskaya gần Nghĩa trang Do Thái. Ai không đến sẽ bị trừng phạt bằng cái chết.

—Lệnh tập trung tại Kiev, khoảng 26 tháng 9 năm 1941.[32]

Có khoảng 1,6 triệu người Do Thái bị giết chết bởi Quốc xã và những người cộng tác trong những cuộc hành quyết ngoài trời, nhất là trong năm 1941 trước khi thiết lập những trại tập trung. Trong thời gian xâm lăng Liên Xô, có hơn 3.000 đội hành quyết đặc biệt (được tổ chức thành bốn lực lượng đặc nhiệm – Einsatzgruppen) theo chân quân đội Quốc xã và tiến hành những vụ hành quyết tập thể mà nạn nhân là người Ba Lan, các viên chức Cộng sản và dân Do Thái sống trong lãnh thổ Liên Xô.

Theo lời của Otto Ohlendorf khi bị đem ra xét xử, "Einsatzgruppen có nhiệm vụ bọc hậu cho quân đội bằng cách áp dụng các biện pháp như tàn sát người Do Thái, dân Di-gan, các viên chức Cộng sản, và bất cứ ai tỏ ra nguy hiểm cho nền an ninh". Trong thực tế, nạn nhân của họ đa phần là dân thường người Do Thái (không có thành viên nào của Einsatzgruppen bị giết khi thi hành nhiệm vụ). Đến tháng 12 năm 1941, bốn đội Einsatzgruppen báo cáo số người họ sát hại lần lượt là 125.000, 45.000, 75.000, và 55.000 – tổng cộng là 300.000 – thường thì họ nhắm bắn hoặc ném lựu đạn vào hố tập thể bên ngoài các thị trấn.

Vụ tàn sát người Do Thái sinh sống ở Liên Xô diễn ra trong một khe núi gọi là Babi Yar bên ngoài Kiev, có 33 771 người Do Thái bị sát hại chỉ trong một cuộc càn quét từ 29 đến 30 tháng 9 năm 1941. Thiếu tướng Friedrich Eberhardt, chỉ huy trưởng quân sự, SS-Obergruppenführer Friedrich Jeckeln, chỉ huy trưởng cảnh sát, và Otto Rasch, tư lệnh Einsatzgruppe C là những người ra lệnh tiến hành cuộc tàn sát được phối hợp bởi các lực lượng SS, SD và an ninh, với sự hỗ trợ của cảnh sát Ukraina.

Vào thứ Hai, dân Do Thái ở Kiev bị tập trung tại một nghĩa trang, chờ đưa lên tàu hỏa. Số người tập trung khá đông gồm đàn ông, đàn bà, và trẻ em nên không ai biết điều gì sẽ xảy ra cho đến khi quá trễ: đến lúc họ nghe tiếng súng máy khai hỏa thì không ai còn có cơ hội trốn thoát. Tất cả bị dẫn vào một con rãnh hẹp theo mỗi nhóm mười người, rồi bị bắn. Một tài xế xe tải kể lại:

Lần lượt từng người một bị lột bỏ hành lý, rồi áo khoác, giày, áo trong, và cả đồ lót… Sau khi đã trần truồng, họ bị dẫn vào hẻm núi khoảng 150 m dài, 30 m ngang, và sâu 15 m… Khi đến đáy hẻm núi, Schutzpolizei bắt họ nằm trên lớp người vừa bị hành quyết trước đó… Xác chết xếp thành nhiều lớp. Một tay súng cầm súng máy đến bắn từng người vào cổ… Tôi thấy những xạ thủ đứng trên các lớp thi thể nhắm bắn từng người một…Một tay súng bước qua các xác chết để nhắm vào một người đang nằm kế đó, và bắn người ấy.[32]

Tháng 8 năm 1941, Himmler đến Minsk, đích thân chứng kiến vụ hành quyết 100 người Do Thái bên ngoài thành phố. SS-Obergruppenführer Karl Wolff ghi lại trong nhật ký, "Mặt Himmler tái mét, móc vội khăn tay ra lau mặt khi óc của nạn nhân văng vào mặt ông ấy, rồi nôn thốc tháo."

Viện Bảo tàng Holocaust Hoa Kỳ thuật lại câu chuyện của một nạn nhân của Einsatzgruppen may mắn còn sống sót khi đội này sát hại 1.600 người Do Thái vào ngày 6 tháng 4 năm 1942 tại Piryatin, Ukraine, tức là ngày thứ hai của Lễ Vượt qua:

Tôi chứng kiến cuộc tàn sát. Lúc 5 giờ chiều phát ra mệnh lệnh, "Lấp đầy các hố." Tiếng gào thét và rên rỉ vọng lên từ đáy hố. Đột nhiên, tôi thấy người hàng xóm Ruderman ngoi lên từ mặt đất... Đôi mắt của anh đầy máu, kêu la: "Giết tôi đi!"... Một phụ nữ gục chết dưới chân tôi. Một bé trai năm tuổi từ dưới xác mẹ bò ra và bắt đầu kêu khóc thảm thiết. "Mẹ ơi!". Đó là tất cả những gì tôi nhìn thấy, trước khi bất tỉnh.[33]

Một đứa bé nằm chết trên đường phố trong Ghetto Warsaw. Ở đây, chỉ trong năm 1941, có 43 000 người chết vì đói và bệnh tật.

Đối tượng ban đầu là người Ba Lan, trong đó có 30.000 nhà trí thức và chính trị gia bị vây bắt, 7.000 người trong số họ bị hành quyết. Đến mùa hè năm 1941, các đội hành quyết quay sang tìm giết người Do Thái, khởi đầu với vụ hành quyết 2.000 người Do Thái tại Bialystok ngày 27 tháng 6 năm 1941, sau đó con số nạn nhân gia tăng mau chóng. Ngày 26 tháng 6, các lực lượng SS Đức hạ sát 1.500 người Do Thái. Từ ngày 30 tháng 6 đến 3 tháng 7 năm 1941, 4.000 người Do Thái thiệt mạng bởi tay những người Ukraina cộng tác với Đức. Từ tháng 9 cho đến cuối năm 1941, một chuỗi các vụ tàn sát tập thể được tiến hành trên khắp Ba Lan, Litva, Ukraina và Latvia: hơn 33.000 người Do Thái mất mạng tại Babi Yar, 25.000 người khác bị giết bởi Quốc xã Latvia (Arjas Commando), hơn 36.000 người chết tại Odessa bởi lực lượng Romania, 19.000 người tại Pháo đài số chín ở Kaunas, và 40.000 (đến năm 1944, con số này là 100.000) bị hành quyết bởi SS Đức. Trong vòng năm tháng, tại châu Âu mỗi tháng có khoảng 100.000 người Do Thái bị hành quyết. Đến cuối năm 1943, có thêm 900.000 người Do Thái bị giết theo cách này, nhưng tiến độ này vẫn bị xem là chậm đối với giới lãnh đạo Quốc xã, nên đến cuối năm 1941 đầu năm 1942 họ cho tiến hành Giải pháp Tối hậu, nhằm tận diệt người Do Thái tại châu Âu.

Người Serb cũng là nạn nhân của chính sách diệt chủng của Nhà nước Độc lập Croatia (Nezavisna Država Hrvatska – NDH), chính phủ bù nhìn thân Quốc xã năm 1941. Cuộc tàn sát được tiến hành dưới nhiều hình thức khác nhau: thiêu sống người Serb sau khi dồn họ vào các nhà thờ; hành quyết bởi những đội tử thần, thường là một nhóm ba người, ban đêm lùng sục khắp các ngôi làng. Họ thường lấp đầy những hố sâu (foiba) bằng những người Serb còn sống bị trói với nhau bằng dây kẽm gai. Những đội tử thần thích thực hành những phương pháp tra tấn và hành quyết tàn bạo như móc mắt hoặc cắt cổ, và treo nội tạng của nạn nhân trên mái nhà.

Từ năm 2004, Đề án Ukraina của Linh mục Patrick Desbois đã tìm ra hơn 500 ngôi mộ tập thể trong các vùng quê ở Ukraina chứa thi thể những người Do Thái bị bắn bởi các đội tử thần. Người ta tin rằng chỉ riêng trong lãnh thổ Ukraina có hơn 1.700 ngôi mộ tập thể.

Khi làm chứng tại Nuremberg ngày 15 tháng 4 năm 1946, Rudolf Höß, một chỉ huy ở Auschwitz, thuật lại rằng đích thân Heinrich Himmler ra lệnh cho ông chuẩn bị trại Auschwitz để tiến hành "giải pháp tối hậu":

Mùa hè năm 1941, tôi được gọi về Berlin đến trình diện Reichsfuehrer SS Himmler để nhận lệnh. Ông ấy bảo tôi – tôi không nhớ chính xác từng chữ - rằng Fuehrer chỉ thị tiến hành giải pháp tối hậu nhằm giải quyết vấn đề Do Thái. Chúng ta, lực lượng SS, phải thực thi mệnh lệnh. Nếu không, sau này dân Do Thái sẽ hủy diệt dân tộc Đức. Ông ấy chọn Auschwitz bởi vì địa điểm ấy dễ tiếp cận bằng đường hỏa xa, và cũng vì nơi ấy rộng rãi đủ để trở thành một trại biệt lập.[34][35][36][37]

Hội nghị Wannsee

Phòng ăn tại biệt thự Wannsee, nơi triệu tập Hội nghị Wannsee. Mười lăm nhân vật ngồi quanh chiếc bàn này để thảo luận về "giải pháp tối hậu cho vấn đề Do Thái" được xem là những người tài trí nhất của Đức Quốc xã.[38]

Cuối năm 1941, Himmler và Heydrich tỏ ra mất kiên nhẫn với tiến độ của Giải pháp Tối hậu. Đối thủ chính của họ là Göring, vốn thành công trong nỗ lực giữ các công nhân Do Thái khỏi bị trục xuất đến Ba Lan, ông cũng liên kết với các tư lệnh quân đội là những người chống đối việc trục xuất người Do Thái do những tính toán về lợi ích kinh tế, do sự ghê tởm đối với lực lượng SS, và cũng vì lòng nhân đạo (trong một số trường hợp). Mặc dù quyền lực của Göring đã suy giảm từ khi lực lượng không quân của ông thất bại trước sức mạnh phòng không của Anh, ông vẫn được duy trì đặc quyền tiếp cận với Hitler.

Vì vậy, Heydrich phải triệu tập Hội nghị Wannsee vào ngày 20 tháng 1 năm 1942 tại biệt thự Am Großen Wannsee No. 56-58 ngoại ô Berlin để đúc kết kế hoạch tiêu diệt dân Do Thái.[39] Kế hoạch được biết với tên Aktion Reinhard (Chiến dịch Reinhard). Có mặt tại hội nghị có Heydrich, Eichmann, Heinrich Müller (lãnh đạo Gestapo), đại diện của Bộ Các Lãnh thổ Miền đông bị Chiếm đóng, Bộ Nội vụ, Văn phòng Kế hoạch Bốn năm, Bộ Tư pháp, Chính quyền ở Ba Lan (có 2 triệu người Do Thái sống ở đây), Văn phòng Ngoại giao, Văn phòng Chủng tộc và Tái định cư, Đảng Quốc xã, và văn phòng phân phối tài sản người Do Thái.[38] Ngoài ra còn có SS-Sturmbannführer Rudolf Lange, chỉ huy SD ở Riga, người mới vừa dọn sạch khu biệt cư Riga.[39]

Theo Michael Berenbaum, 15 người ngồi quanh chiếc bàn hội nghị được xem là những nhân vật tài trí nhất; hơn một nửa trong số họ đều có học vị tiến sĩ của các đại học Đức. Rượu mạnh được dọn lên trong khi họ bàn luận.[38]

Người ta trình lên hội nghị kế hoạch tàn sát tất cả người Do Thái ở châu Âu, kể cả 330.000 người sinh sống ở Anh và 4.000 ở Ireland.[39]

Theo báo cáo, có 2,3 triệu người Do Thái ở Ba Lan, 85.000 ở Hungary, 1,1 triệu sống tại các quốc gia bị chiếm đóng, và có đến 5 triệu người Do Thái ở Liên Xô (3 triệu trong số này đang sống trong vùng bị Đức chiếm đóng) – tổng cộng có khoảng 6,5 triệu. Tất cả sẽ được vận chuyển bằng tàu hỏa đến các trại hành quyết (Vernichtungslager) ở Ba Lan, tại đó những người không thể làm việc sẽ bị giết bằng hơi ngạt ngay lập tức. Tại các trại khác, như Auschwitz, những người còn có thể làm việc được cho sống một thời gian, nhưng rồi cũng bị mất mạng. Đại diện của Göring, Tiến sĩ Erich Neumann, giành được một sự miễn trừ có giới hạn cho một số tầng lớp công nhân Do Thái.

Trại hành quyết (1942 – 1945)

Ước tính số nạn nhân thiệt mạng tại mỗi trại hành quyết
(Nguồn: Yad Vashem[40])
Trại hành quyếtTử vongChú thích
Auschwitz II1.400.000[41][42]
Belzec600.000[43]
Chelmno320.000[44]
Jasenovac600.000[45]
Majdanek360.000[46]
Maly Trostinets65.000[47]
Sobibór250.000[48]
Treblinka870.000[49]

Tháng 12 năm 1941, Quốc xã cho mở trại Chelmno, trại đầu tiên trong số bảy trại hành quyết được thiết lập với mục đích sử dụng công nghiệp hành quyết để tận diệt tù nhân trong trại. Đây là loại hình khác với các trại tập trung hoặc trại lao động. Hơn ba triệu người Do Thái mất mạng trong các trại hành quyết này. Phương pháp sát hại là dùng khí độc (Zyklon B hoặc carbon monoxide) trong những "phòng hơi ngạt", mặc dù vẫn có nhiều nạn nhân bị giết bằng súng hoặc bằng các phương tiện khác. Thi thể của họ bị đem vào các lò thiêu xác (riêng ở trại Sobibór, dùng các giàn thiêu ngoài trời), tro người chết được rải hoặc chôn.

Các trại hành quyết được điều hành bởi các sĩ quan SS, dưới quyền họ thường là các phụ tá người Ukraina hoặc Baltic. Lính chính quy Đức không được đến gần.

Phòng hơi ngạt

Di tích các phòng hơi ngạt tại Auschwitz II (Birkenau). Ảnh chụp năm 2006

Tại các trại hành quyếtphòng hơi ngạt, tất cả tù nhân được đưa đến bằng xe lửa, vào địa điểm tiếp nhận, tại đây tất cả áo quần và tư trang đều bị tước đoạt. Họ bị dồn, thân thể trần truồng, vào các phòng hơi ngạt. Trước đó họ được bảo cho biết được đưa đi tắm hoặc tẩy trừ rận chấy, trên đường đi có các bảng chỉ dẫn "phòng tắm" hoặc "tắm hơi".

Theo Rudolf Höß, chỉ huy trại Auschwitz, boong ke 1 chứa 800 người, boong ke 2 chứa 1.200. Một khi phòng hơi ngạt đầy người, cửa phòng bị khóa chặt và những viên Zyklon-B, được thả vào phòng qua những lỗ thông hơi trên tường, bắt đầu tỏa khí độc. Những người bị nhốt trong phòng sẽ chết trong vòng 20 phút; chết nhanh hay chậm phụ thuộc vào vị trí người ấy đứng gần lỗ thông hơi hay không, theo ước tính của Rudolf Höß, khoảng một phần ba nạn nhân chết tức khắc. Joann Kremer, một bác sĩ SS, làm chứng: "Có thể nghe tiếng la hét kêu gào của các nạn nhân, rõ ràng là họ đang cố tìm cách cứu mạng mình."[50]

Khi dọn xác nạn nhân, các tù nhân từng là nha sĩ được giao nhiệm vụ dùng kềm thu hồi răng vàng trong miệng các xác chết, và tóc của những xác phụ nữ đều bị cắt.[51]

Một phát kiến mới là chúng tôi cho xây dựng các phòng hơi ngạt có thể chứa 2.000 người cùng một lúc, trong khi trại Treblinka với 10 phòng hơi ngạt chỉ chứa mỗi lần 200 người. Tù nhân được phân loại như sau: tại Auschwitz chúng tôi có hai bác sĩ chuyên làm việc này. Tù nhân xếp hàng từng người một đến trình diện bác sĩ, những người có đủ sức khỏe để làm việc sẽ được nhập trại. Những người còn lại bị đưa đến chỗ hành quyết. Trẻ em còn nhỏ chắc chắn bị giết vì chúng không thể làm việc. Một cải tiến khác khiến chúng tôi qua mặt trại Treblinka, là ở Treblinka nạn nhân hầu như luôn biết là họ sẽ bị hành quyết, trong khi ở Auschwitz chúng tôi cố làm cho họ tin là họ đang được đưa đi tẩy trừ chấy rận. Dĩ nhiên, nhiều khi họ nhận ra ý định của chúng tôi, vì vậy đôi khi chúng tôi cũng gặp khó khăn hoặc có khi bùng nổ bạo loạn. Thường thì các bà mẹ cố giấu con mình sau những lớp áo, nhưng chúng tôi phát hiện ra ngay và đem chúng đi hành quyết. Chúng tôi được lệnh tiến hành các cuộc hành quyết trong bí mật, nhưng mùi hôi thối bốc ra từ những thi thể bị thiêu lan tỏa khắp vùng, nên mọi người dân sinh sống gần đó đều biết rằng các cuộc hành quyết đang diễn ra trong trại Auschwitz. - Rudolf Höß, chỉ huy trại Auschwitz, làm chứng tại Nuremberg[52]

Năm 1942, Quốc xã cho khởi động giai đoạn tàn sát cao nhất trong vụ Holocaust, theo đề án Aktion Reinhard, mở cửa các trại hành quyết Belzec, Sobibór, và Treblinka. Tháng 9 năm 1943, hơn 1,7 triệu người Do Thái bị giết trong ba trại này. Trại tử thần lớn nhất được xây dựng tại Auschwitz-Birkenau, gồm có một trại lao động (Auschwitz) và một trại hành quyết (Birkenau); trong trại Birkenau có bốn phòng hơi ngạt và một lò thiêu xác. Trại Birkenau là nơi kết thúc mạng sống của khoảng 1,6 triệu người Do Thái (trong đó có 438.000 người Do Thái bị đem đến từ Hungary chỉ trong vòng vài tháng), 75.000 người Ba Lan và đồng tính nam, cùng khoảng 19.000 người Roma. Vào lúc cao điểm, mỗi ngày có đến 8.000 người bị đưa vào phòng hơi ngạt.

Khi nhập trại, mọi vật dụng có giá trị đều bị tịch thu, phụ nữ bị buộc cắt tóc ngắn. Theo những tài liệu của Quốc xã, tóc của tù nhân được dùng để sản xuất vớ dài. Tù nhân bị chia thành hai nhóm: những người yếu sức bị đưa ngay vào phòng hơi ngạt (đôi khi ngụy trang thành phòng tắm), những người khác bị sử dụng như những lao động khổ sai trong nhà máy hoặc tại các cơ sở công nghiệp được xây dựng bên trong hoặc kế cận trại. Giày, vớ dài và các vật dụng khác của người tù được tái chế thành các sản phẩm phục vụ chiến tranh. Một số tù nhân bị buộc làm công việc gom xác và thu hồi răng vàng từ các thi thể.

Hành trình tử thần và được giải thoát (1944 – 1945)

Cuối năm 1944, khi quân đội Đồng Minh tiến gần nước Đức, Quốc xã quyết định bỏ các trại hành quyết, di chuyển hoặc hủy bỏ chứng cứ về sự tàn bạo ở đây. Quốc xã đưa tù nhân, bệnh tật sau những năm tháng chịu đựng ngược đãi và đói khổ, đi bộ trên những quãng đường dài hàng chục dặm trong tuyết để đến ga xe lửa; rồi được vận chuyển trong những chuyến hành trình dài ngày trong những toa hàng đóng kín mà không có thức ăn; rồi bị buộc phải đi bộ đến một trại khác. Tù nhân lê lết đàng sau hoặc ngã xuống sẽ bị bắn chết. Cuộc hành trình tử thần lớn nhất và được biết đến nhiều nhất diễn ra trong tháng 1 năm 1945, khi ấy quân đội Liên Xô đã tiến vào Ba Lan. Chín ngày trước khi binh sĩ Liên Xô đặt chân đến trại tử thần Auschwitz, lính canh SS đưa 60.000 tù nhân ra khỏi trại đến Wodzislaw cách đó 56 km (35 dặm), đẩy họ vào những toa tàu đóng kín để đưa đến những trại khác. Khoảng 15.000 người chết trên đường đi. Tính tổng cộng, có khoảng 100.000 người Do Thái thiệt mạng trong các cuộc hành trình tử thần.[53]

Trong gió lạnh thấu xương, chúng tôi vẫn bước đều không được nghiêng ngả. Đêm tối như mực. Đâu đó nghe có tiếng súng nổ trong đêm. Họ ra lệnh bắn vào bất cứ ai ngã xuống mà không thể gượng dậy. Những ngón tay chực chờ trên cò súng, họ không thể bỏ qua niềm khoái cảm này. Nếu trong chúng tôi có một người dừng lại dù chỉ trong một giây, lập tức một phát súng khô khốc kết liễu đời một tên tiện dân. Kế cận bên tôi có những người ngã gục trên mặt tuyết bẩn. Và những phát súng[54]

Tháng 7 năm 1944, trại Quốc xã quan trọng đầu tiên, Majdanek, được phát hiện bởi binh sĩ Liên Xô, họ cũng là những người giải phóng trại Auschwitz trong tháng 1 năm 1945. Hầu hết các trại hành quyết đều được phát hiện bởi binh lính Liên Xô, trong số những người tù bị đưa đi trên các cuộc hành trình tử thần, chỉ còn vài ngàn người sống sót. Lực lượng Mỹ và Anh tìm ra các trại tập trung, trong đó có trại Bergen-Belsen vào ngày 15 tháng 4 năm 1945. Người ta tìm thấy khoảng 60.000 người tù còn ở trong trại,[55] nhưng chỉ trong vòng vài tuần lễ sau khi được giải thoát, có đến 10.000 người chết vì bệnh tật và suy dinh dưỡng.

Chúng tôi nghe tiếng kêu lớn bằng tiếng Anh và tiếng Đức, lặp lại nhiều lần: "Xin chào, xin chào. Các bạn đã được tự do. Chúng tôi là lính Anh đến để giải cứu các bạn. Lời nói này vẫn còn vang vọng trong tai tôi. – Hadassah Rosensaft, người tù tại Bergen-Belsen.[56]

Phóng viên đài BBC Richard Dimbleby miêu tả quang cảnh các binh sĩ Anh chứng kiến tại Belsen:

Trên khoảnh đất rộng hơn một mẫu Anh nằm la liệt những người chết và những người đang hấp hối. Bạn không thể phân biệt được điều gì… Người sống sót nằm gối đầu trên những xác chết, xung quanh họ là đoàn diễu hành ma quái với những thân người hốc hác, rũ liệt đi thất thểu không phương hướng, không biết làm gì mà cũng không còn chút hi vọng nào cho cuộc sống, họ không còn sức để tránh bạn, cũng không thể nhìn thấy gì chung quanh... Những đứa trẻ chào đời ở đây, những sinh linh bé bỏng này với hình hài quắt queo làm sao mà sống nổi... Một người mẹ mất trí, gào thét khi thấy người lính Anh đưa cho mình bình sữa để cho con bú, vội ném vào tay người này một cái bọc tí xíu... Khi tháo bọc ra, người lính mới biết đứa bé đã chết từ lúc nào.

Cái ngày tôi đặt chân đến Belsen là ngày khủng khiếp nhất đời tôi.[57]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Holocaust http://www.doew.at/information/mitarbeiter/beitrae... http://www.mauthausen-memorial.at/ http://www.breendonk.be/ http://mill-valley.freemasonry.biz/persecution.htm http://history1900s.about.com/od/holocaust/a/holoc... http://www.annals-general-psychiatry.com/content/6... http://www.berkeleyinternet.com/holocaust http://www.courttv.com/archive/casefiles/nuremberg... http://defendinghistory.com/wp-content/uploads/201... http://hampshirehigh.com/exchange2012/docs/BROWNIN...